“Giấc mộng đêm hè” trong chủ nghĩa Lãng mạn
Có thể nói rằng, Wagner đã tận dụng được sức mạnh của báo chí và những cố gắng dưới cái tên nhiều sức nặng của ông đã khiến phong trào bài Do thái nảy mầm khắp nước Đức. Wagner và vòng tròn định hướng độc ác của ông đã nhắm đến cả Johannes Brahms, người giống như Mendelssohn, bị Wagner miêu tả là đại diện cho sự thủ cựu của âm nhạc Đức trong khi Wagner có ý niệm “âm nhạc của tương lai”. Ngày nay, cuộc chiến Wagner-Brahms được xem như một điều kỳ quặc với khán giả nhạc cổ điển, những người có thể khâm phục, khen ngợi tất cả mọi thứ trong quá khứ. Nhưng khi giọng terno của Wagner vang lên đã tấn công v�
Anton Arensky – Isaac Levitan
Sáng, bầu trời xam xám, nặng nề nhưng không khí lại se se dễ chịu. Cảm giác thanh khiết, tĩnh lặng lạ lùng. Hợp với chamber music. Nhắc đến chamber music lại nhớ đến Anton Arensky.
Anton Arensky không phải là một nhạc sỹ Nga nổi tiếng, tên tuổi của ông bị chìm lấp giữa những nhạc sỹ nổi tiếng của Nga khác như Scriabin, Stravinsky… Thậm chí, phần tiểu sử của ông bằng tiếng Anh cũng chỉ đơn giản ngắn ngọn vài dòng, không hơn không kém. Các sáng tác của ông phần lớn là chamber music. Khuynh hướng sáng tác thiên về lãng mạn, có thể chịu nhiều ảnh hưởng của Tchaikovsky nhưng cũng có ý kiến cho rằng, Arensky còn bị ảnh hưởng bởi Frank, Mendenssohn, Chopin… Hiển nhiên, âm nhạc của Arensky lãng mạn một cách tự nhiên, thấm đẫm chất u sầu của tâm hồn Nga, kết cấu các tác phẩm trong trẻo và mang tính cân xứng cổ điển.
Arensky dạy học ở Nhạc viện Maskva, những người học trò ưu tú của ông là Rachmaninoff, Scriabin và Gliere Trong thời gian ở Maskva, Arensky đã gặp gỡ Tchaikosky, người sau này trở thành người bạn lớn, cố vấn đáng kính của ông. Anton Arensky còn được chính Balakirev tiến cử giữ chức giám đốc của Imperial Chapel, St Petersburg từ năm 1895 đến 1901.
Anton Arensky là học trò của Nikolai Rimsky Korsakov. Chính Korsakov đã từng nói: “Thời trẻ tuổi, Arensky đã không thể thoát khỏi sự ảnh hưởng của tôi, còn sau đó bị ảnh hưởng bởi Tchaikovsky. Anh ta sẽ nhanh chóng bị lãng quên thôi”.
Rimsky Korsakov có thể có lý khi nói điều này, bởi ở thời điểm này, ít tác phẩm nào của Arenky được thu âm và biểu diễn, ngoại trừ Trio op 32. Tác phẩm đề tặng một người bạn thân thiết của ông, nghệ sỹ cello Charles Davidoff.
Trio viết cho violon, cello và piano op 32 của Arensky là một tác phẩm thính phòng xuất sắc. Âm nhạc thuần khiết và trong trẻo, đặc biệt vẻ đẹp cân đối lạ thường ở chương 2. Chương 1 của tác phẩm được bắt đầu bằng giai điệu trữ tình của violon và là chủ đề trữ tình của chương. Chủ đề ám ảnh này cũng xuất hiện ở phần cuối chương, chầm chậm như một lời giã từ. Chủ đề thứ hai xuất hiện từ tiếng đàn cello và mang tính biểu cảm trái ngược, tràn đầy hy vọng và vui mừng. Sự phát triển của chương nhạc bị xen kẽ bởi hai chủ đề luân phiên, giữa “chủ đề giã từ” và một hình thức mang tính chất vui vẻ mới.
Chương 2 của tác phẩm là một khúc scherzo và được xâm chiếm hoàn toàn bởi tiếng nẩy đầy ấn tượng của chiếc vĩ. Sự tương phản của những gam nhanh và tiếng pizzicatti đã trở thành phần chính yếu của chương, trio của phần scherzo mang màu sắc trang nhã, tươi tắn, rộng mở. Tiếng đàn cello và violon xen kẽ, luân phiên và liên tục trên chủ đề chính trong khi cây đàn piano đem lại điệu nhảy rộn ràng.
Chương 3 là khúc bi ca Elegia chính là sự lên tiếng hùng hồn của đàn dây và là lời đề tặng hùng hồn nhất dành cho nghệ sỹ cellist vĩ đại Davidoff. Tốc độ nhanh ở phần giữa chương sẽ trở thành phần trích dẫn trong phần coda chương 4.
Chương 4 mang nhịp điệu mạnh mẽ, dứt khoát và đưa tính trữ tình tới cực điểm. Nó ngay lập tức cho thấy sự phảng phất của chương Elegia và chủ đề chương 1 trở lại trong nhịp điệu chậm rãi adagio tempo. Sự mong ước đã không kết thúc trong ảm đạm, chương 4 trở lại nhanh chóng với nhịp độ nhanh. Những ký ức âm nhạc đẹp đẽ khép lại bằng điệu nhảy của niềm vui chiến thắng và sự mạnh mẽ.